Kiến thức chung về huấn luyện chó

NGUỒN GỐC VÀ LOẠI HÌNH CHÓ


1. Nguồn gốc của chó

Người ta coi chó là con vật đáng tin cậy nhất, được người thuần dưỡng và nuôi thả ở nhà. Sự kiện này diễn ra cách đây khoảng 30 - 40 ngàn năm về trước vào giữa thời kỳ đồ đá, thời kỳ xuất hiện chế độ mẫu hệ.



Chúng ta không biết được chính xác nguồn gốc tổ tiên của chó ngày nay và vì vậy phải đồng ý với ý kiến phần lớn của các nhà bác học đặt ra giả thiết rằng: chó và sói và chó rừng trước kia là tổ tiên của các loài chó đang sống ngày nay. Qua các số liệu khảo cổ học, dân tộc học và qua sự giống nhau về hình thái học, sinh vật học của chó với chó sói và chó rừng, đã chứng minh giả thiết đó là đúng.

2. Ngoại hình chung của chó

Thực tế chăn nuôi thú vật hàng nghìn năm đã chứng minh được rằng, giữa hình dáng bề ngoài, cấu tạo bên trong, những đặc điểm sinh vật học của thú và sức sinh sản của chúng, có sự phụ thuộc nhất định với nhau sự phân chia của khoa học động vật học, như về ngoại hình về cấu tạo (thể tạng) của thú sẽ làm sáng tỏ thêm sự phụ thuộc lẫn nhau này.

Ngoại hình, nghiên cứu về hình dáng và cấu tạo bên ngoài của thú, xác định mối quan hệ với nhau của hình dáng đó đối với các dấu hiệu sinh vật học và khả năng sử dụng được của thú.

Sự hiểu biết về ngoại hình và cấu tạo, cho phép ta nhận được đặc tính của những con vật khác nhau bằng cách đánh giá tương đối nhanh qua cách nhìn thông thường bằng mắt, nghĩa là cho phép ta xác định ngay được giống, giới tính, màu lông, tuổi của con vật, tính cân đối về hình dáng, dự đoán được loại hoạt động thần kinh cao nhất (tính khí) và đi đến kết luận có giá trị kinh tế của con vật. Để có sự hiểu biết chính xác hơn nữa về chó, người ta thường áp dụng cách đo sinh học đơn giản nhất.

Quan sát chó từ nhiều hướng khác nhau: phía trước, phía sau và hai bên sườn ở cự ly 3 - 4 m. Khi đó, chó phải đứng ở tư thế cân đối trên địa thế bằng phẳng và toàn thân dồn đều lên các đầu chi. Đặt thước đo chiều cao và thước dây chia độ đến cm vào gần chó một cách rất nhẹ nhàng để chó không có phản ứng tự vệ. Để xác định đặc tính vận động của chó, người ta thường cho chó đi hoặc chạy vòng quanh. Khái niệm ngoại hình của chó là toàn bộ cơ thể thống nhất của nó, song để cho tiện người ta thường quan sát ngoại hình gồm bốn phần: ngoại hình của đầu, cổ, thân và các chi. Trong mỗi phần người ta lại chia ra thành những mục (các phần của thân thể).

Ngoại hình của đầu: Xương sọ và xương hàm là phần chính của đầu. Đầu được chia thành những phần sau đây: gáy cùng với bờm gáy, đỉnh đầu, tai, trán; ở phần mõm có: mắt, sống mũi, đỉnh mũi, má, hàm trên và hàm dưới, môi, mồm và răng.

Về hình dáng: đầu thường có hình tròn, hình nhọn (chóp), hình vuông và hình chữ nhật. Mõm có thể là dóng mõm ngắn, mõm bình thường và mõm dài, nó tỷ lệ với chiều dài của trán. Mõm có hình cắt khác nhau như: thẳng, hóp, hếch và mõm dáng chó giữ nhà.




Tai: hình dáng và chiều dài của tai rất khác nhau và phụ thuộc vào sự phát triển của sụn vành tai. Phân loại tai ra thành tai đứng (tai chổng), tai chúc, tai cúp và còn có loại tai xẻ (tai xẻ nhân tạo).

Mắt: biểu thị đặc tính theo màu sắc, hình dáng, khe mắt, chiều sâu và chiều rộng của mắt, độ mỏng và độ khô của mí mắt.

Mõm và răng: Hình dáng của mồm phụ thuộc vào sự phát triển của hàm và môi. Mõm của loại chó to có 42 răng ổn định. Trong số đó có 12 răng cửa, 4 răng nanh và 26 răng hàm. Ở hàm dưới có răng hàm nhiều hơn ở hàm trên là 2 chiếc.
Theo tiêu chuẩn, hàm trên phải lớn hơn hàm dưới một chút, và phải hơi nhô ra phía trước so với hàm dưới. Mức độ ngậm kín của hàm răng gọi là kiểu cắn khít răng, phụ thuộc vào chiều dài của hàm.

Độ cắn khít răng có thể đạt đúng tiêu chuẩn hoặc không đúng tiêu chuẩn. Khi đó, cắn khít răng đúng tiêu chuẩn (hay còn được gọi bằng cách khác là dạng lưỡi kéo), thì toàn bộ bề mặt môi (ngoài) của các răng của hàm dưới nằm lọt phía trong bề mặt lưỡi (trong) của răng cửa hàm trên.
Kiểu cắn khít răng không đúng tiêu chuẩn có thể được biểu thị trong cách cắn - khi rút ngắn xương mặt của hàm trên hoặc trong cách cắn - khi hàm dưới chưa phát triển đầy đủ.
Nếu hàm trên rất ngắn có dạng kìm cắt, khi mà chiều dài của các hàm giống nhau và các răng cửa gặp nhau trực tiếp bằng các bề mặt cắt, thì có thể là kiểu cắn khít của chó bu-tơ-đô. Người ta thường xác định tuổi của chó theo số răng cửa. Nguyên tắc xác định được dựa trên chu kỳ phát triển (mọc), thay và mòn bề mặt cắt của răng, nguyên tắc đó gọi là tam diệp. Ở phần trước của mỗi hàm trên và hàm dưới có 6 răng cửa; 2 răng cửa ở giữa gọi là răng móc, các răng cửa giữa nằm ở 2 phía bên phải và bên trái răng móc, và các răng cửa ngoài cùng gọi là răng khóc.

Dựa vào răng, chỉ có thể theo dõi khá chính xác sự thay đổi tuổi của chó đến khi chó 6 tuổi.
Từ 6 tuổi trở lên, xác định tuổi của chó theo độ mòn của răng tương đối khó. Những hiện tượng sau đây có thể chỉ là những dấu hiệu phụ chỉ tuổi của chó như: răng nanh mòn nhiều, thân răng mòn hoàn toàn và răng biến thành màu vàng, xuất hiện lông bạc trên đầu, trễ môi, mắt trũng và mờ đi. Tuổi trung bình của chó từ 12 - 14 tuổi. Giống chó nhỏ sống lâu hơn giống chó to.
Môi. Môi khô, phác hoạ rõ mồm và môi ướt và xếp, thường có nếp nhăn ở 2 bên mép (thường gọi là môi dầy).

Ngoại hình của cổ: Người ta coi cơ sở của cổ gồm có 7 đốt sống cổ. Chiều dài của cổ phụ thuộc vào chiều dài của thân các đốt sống. Để xác định chiều dài của cổ, người ta so sánh cổ với chiều dài của đầu. Cổ gồm có các phần sau đây: họng cổ, mang cổ và sống cổ. Do uốn nếp và trề của da ở khu vực phía dưới hom dưới và do ở một phần ba phía dưới của cổ gọi là "yếm cổ". Chó có cổ ngắn nhưng to, có nhiều nếp nhăn ở bờm, biểu hiện sự sung sức của nó.
Góc nối cổ với mình gọi là khuỷu cổ. Khuỷu cổ có góc đẹp nhất là 45 độ. Nếu góc lớn hơn hoặc nhỏ hơn sẽ tạo thành khuỷu cổ cao hơn hoặc thấp hơn.
Ngoại hình của mình: mình chó được chia ra thành những phần sau đây: bướu vai lưng, cơ lưng, mông, đuôi và ***g ngực, bụng bẹn, ở chó đực là phần thịt thừa, ở chó cái là vú.

Bướu vai: là phần mình được giới hạn ở phía trước là cổ, ở phía sau là lưng, ở hai bên là bả vai. Cơ sở của bướu vai là 4 - 5 mấu có ngang của đốt sống ngực. Khi đánh giá bướu vai, nên chú ý đến chiều cao, chiều rộng và chiều dài của nó. Bướu vai cao, rộng, tương đối dài và có cơ bắp là tốt.

Lưng: là phần mình giữa bướu vai và thắt lưng, bên phải và bên trái được giới hạn bằng rẻo sườn của ***g ngực. Nó bao gồm khoảng 8 - 9 đốt sống lưng và những đoạn trên của xương sườn. Lưng được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài và hình dáng. Người ta thường phân biệt lưng rộng với lưng hẹp, lưng dài với lưng ngắn, lưng võng với lưng gù, lưng mềm với lưng cứng. Lưng thẳng, rộng, dài đều là lưng đẹp.

Eo lưng: là phần mình bị giới hạn bởi lưng ở phía trước, bởi mông ở phía sau và ở hai bên bởi vùng bẹn. Phần co lưng gồm 7 đốt sống của eo lưng có mấu thẳng đứng và nằm ngang.
Đánh giá eo lưng cũng giống như đánh giá lưng, eo lưng võng, thường được gọi là "eo xệ". Chó có eo lưng ngắn, rộng và hơi võng lên là eo lưng đẹp.

Mông: là phần mình bị giới hạn ở phía trước bởi eo lưng, ở phía sau bởi đuôi và hai bên bởi đùi. Xương chậu và xương cùng nằm ở phần mông. Khi đánh giá mông, cần chú ý đến chiều rộng, chiều dài, độ tròn và đường chóp của nó. Mông thường có các dạng như sau: rộng, hẹp, dài, ngắn, phẳng, tròn, thẳng, xệ, hếch và "mông treo". Chó có loại mông tương đối rộng (đặc biệt là chó cái, dài, tròn và hơi xệ là loại chó tốt.

Đuôi: gồm 20 - 22 đốt sống đuôi. Xét theo chiều dài thì đuôi có loại dài, loại ngắn và loại ngắn nhân tạo. Chó có đuôi dài là khi đuôi của nó cụp xuống thì phần tận cùng của đuôi thấp hơn khớp gối, còn nếu khi cụp xuống mà đuôi không đạt tới khớp gối là loại chó có đuôi ngắn hoặc đuôi ngắn nhân tạo. Cắt ngắn đuôi và tai chó với chiều dài đã được tiêu chuẩn công nhận đối với những giống chó quy định nào đó. Xét về mặt hình dáng, người ta phân loại thành: đuôi thẳng, đuôi hình lưỡi câu, hình vành khuyên, hình thanh kiếm, hình lưỡi liềm và hình xoắn ốc.

Ngực và ***g ngực: Phần phía trước của ***g ngực gọi là ngực. ***g ngực bị giới hạn bởi các bộ phận như sau: ở phía trên là bướu vai và lưng, ở phía dưới là xương ngực, ở phía trước là khoảng trống giữa vai và chỗ bắt đầu cổ họng nối với mình, ở phía sau là những xương sườn cụt. Ngực và ***g ngực được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài, chiều sâu, thể tích và hình dáng. ***g ngực thường có dáng phẳng, ô van cụt, hình thùng (ống). Đối với tất cả các giống chó cần phải có ***g ngực rộng, tương đối sâu và dài.
Chiều rộng của ngực được đo ở phía trước, giữa các khớp vai, chiều sâu được đo theo đường thẳng đứng (đường dây dọi) ngay phía sau của hai chân trước, tính từ bướu vai xuống đến xương ngực, đo vòng ngực bằng thước dây ngay sau chân trước (nách).

Bụng: là phần có thành bụng mềm, đoạn từ xương sườn cụt đến xương chậu. Về hình dáng, bụng thường phải thon đều, béo mỡ và xệ. Đối với tất cả các giống chó cần có dáng bụng thon đều mới tốt.

Ngoại hình của chi: Chi được đánh giá theo dáng thế, vẻ, nở nang của hình dáng và độ mở của các góc khớp.
Chi ngực (chi trước) gồm: xương bả vai, vai, khuỷu (cùi chỏ), cẳng chân, cổ chân, khớp đốt bàn chân và bàn chân.
Tư thế đứng của chó được coi là đúng trong trường hợp nếu các chi được đặt thẳng đứng lên mặt đất, song song với nhau và mở ra bằng chiều rộng của ngực. Bàn chân có hình vòm, các ngón kín sát nhau và áp sát mặt đất. Các góc khớp mở như sau: khớp vai 90 - 1000, khớp khuỷu 120 - 1300. Các khớp phải rộng, có hõm lớn và sạch, không bị hỏng (mất) những đường viền tự nhiên, sờ thấy rõ xương và gân, không bị bệnh.

Những hiện tượng khác thường hay gặp là: cò, khoèo, lệch, thọt chân; thu chân lại dưới mình hoặc choãi chân ra phía trước, khô khớp, các loại bệnh khác về màng, xương, gân và các túi chất nhầy.

Chi sau gồm đùi, gối, cẳng chân, khớp gối, xương bàn chân và bàn chân.
Khi nhìn từ phía sau, các chi sau phải song song với nhau, các chi trước khép lại và có các góc của đốt khớp như sau: góc đùi khoảng 80 - 850, góc gối 125 - 1350, góc mở khớp gối 125 - 1350.

Những yêu cầu khác cũng giống như đối với chân trước vậy.
Những hiện tượng như co khớp đùi, tư thế đứng rộng và hẹp, hình thùng (ống), hình lưỡi kiếm, buông thõng và nhẽo chân (mềm chân ra) được coi là những khuyết tật và những thiếu sót.

3. Năm giác quan của chó

Hiểu biết cơ bản về giác quan của chó không những giúp chúng ta chăm sóc sức khỏe, huấn luyện chó, mà còn tận dụng các khả năng phi thường của loài vật đặc biệt này hỗ trợ hiệu quả cho con người.

Thị giác:

Khả năng nhìn vào ban đêm của chó tốt hơn người rất nhiều vì tế bào võng mạc mắt của chó có thể hội tụ cả hai loại ánh sáng rực rỡ ban ngày và lờ mờ của đêm tối. Điều quan trọng này giúp chó săn mồi và bảo vệ tốt vào ban đêm.

Góc nhìn của mắt chó rất rộng vì hệ cơ điều khiển con ngươi linh hoạt và mềm dẻo, nhiều khi không cần quay đầu mà chó có thể đảo mắt về các phía, quan sát kỹ lưỡng, giúp phản ứng nhanh và giữ bí mật, giảm thiểu cử động cơ thể.

Mắt chó có 3 mí, khi không cần thiết chỉ đóng 1 mí chắn bụi mà vẫn không ảnh hưởng lắm tới khả năng nhìn.

Nước mắt chó có khả năng ô-xy hóa và sát trùng rất mạnh, việc tiết nhẹ chất nước trong để bảo vệ mắt và tống khứ được bụi bẩn trong điều kiện hoang dã của môi trường.

Mắt chó thực sự là một camera hoàn hảo gưỉ hình ảnh và được xử lý ngay lập tức trong vùng thị giác bán cầu đại não với tốc độ tức thì chỉ đạo các bộ phận cơ thể thực hiện kịp thời các động tác : cắn xé, chạy, sủa hoặc tình cảm âu yếm.

Chó không phân biệt được màu sắc như người, chỉ hai màu: trắng và đen ( mù màu ). Nghĩa là các màu đen, đỏ, xanh nâu...chỉ là một!

Thính giác:

Khả năng nghe của chó gấp hai lần con người. Phản ứng đáp ứng sau khi nghe nhanh gấp hai lần rưỡi con người.

Chó có khả năng nghe được sóng siêu âm nên người ta dùng còi siêu âm để dạy chó.

Khả năng phân biệt âm thanh của chó tuyệt hảo. Tiếng suỵt, huýt sáo hay tiếng chút chít của động vật, ri rỉ của côn trùng đều được xử lý vào "bộ nhớ" và nhận biết được khi nghe lại lần khác. Các khẩu lệnh dạy chó cần được phát lại chuẩn , như nhau thì mới có hiệu quả.

Khứu giác:

Có thể đánh giá khả năng ngửi, đánh hơi của chó là một giác quan quan trọng nhất trong 5 giác quan. Không chỉ ngửi mùi vị phân biệt thức ăn, chó còn dùng mũi để ngửi phát hiện con mồi đi săn. Định vị mình đang ở đâu? Để thông tin với nhau trong cộng đồng. Tìm bạn tình hoặc phân biệt con đẻ với những con chó con lạ. Một con chó đực có thể nhận biết các "cô ả xinh đẹp" đang đến kỳ động dục đỉnh điểm trong vòng bán kính... 3 km ! Vì vậy nhiều khi chủ chó rất lạ vì xung quanh hàng xóm không nuôi chó mà sao chó vẫn "mang bầu"!

Không cần "nếm", chỉ ngửi thức ăn, chó có thể quyết định ăn hay từ chối ăn.

Nhậy cảm, nhận biết mùi của chó nhanh gấp 1 triệu lần khả năng của con người vì chó có hơn con người 40 lần số tế bào khứu giác trong bán cầu đại não, thể tích vùng nhận cảm khứu giác ngửi của chó là 150cm3 trong khi con người chỉ có 3cm3.

Giống chó có ống mũi dài như cocker, GSD, Dachshund... khả năng ngửi, đánh hơi tốt hơn các giống chó khác. Chó Cocker và GSD được huấn luyện nghiệp vụ phát hiện ma túy và nhận biết dấu vết tội phạm.

Một số mùi thơm mà đối với người rất dễ chịu: nước hoa, shampoo, rượu... thì chó cực ghét và ngược lại chó rất thích ngửi mùi... dễ sợ: phân hôi thối, xác chết. "Ngày xưa người ta nuôi chó không chỉ để giữ nhà mà còn ... dọn phân trẻ con" ( theo Nguyễn Bảo Sinh )! Nhiều khi chó tha chất rác bẩn về nhà làm chủ khó chịu. Nhưng cũng có ích khi con người tận dụng khả năng này cho cứu hộ thiên tai, động đất, bão tố.

Vị giác:

Là giác quan liên kết hữu cơ với khứu giác, đồng thời ngửi rồi mới quyết định nếm, liếm thức ăn hay âu yếm bạn tình hoặc chủ.

Chó thích ăn thức ăn giống nhau hàng ngày. Điều này quan trong với chủ chó quyết định khẩu phần và thời gian cho chó ăn.

Số lượng tế bào thần kinh vị giác ở niêm mạc lưỡi chó ít hơn 12 lần so với người, phải chăng khả năng ngửi quá tốt đã làm giảm nhiều chức năng của tế bào này!

Xúc giác:

Chó khá nhậy cảm với sự thay đổi thời tiết và vùng khí hậu của môi trường. Cảm giác đau đớn, bị lạnh, nóng được nhận biết từ các đầu mút thần kinh bộ da truyền tin vào vỏ đại não được xử lý bằng phản ứng run rẩy, dựng lông. Chó nhậy cảm với lạnh hơn là nóng mặc dù nóng nực làm chó tăng tiết dịch, dãi và tăng hô hấp.

Các gan bàn chân chó không có ý nghĩa lắm về xúc giác như cảm giác bàn tay của con người.

4. Cấu tạo của chó

Người ta chia các giống chó ra thành 5 kiểu cấu tạo chủ yếu:

Cấu tạo thô thiển: Được biểu thị bằng kiểu: đầu hình khối, ngắn, rộng và cổ ít cử động, bộ xương nổi rõ và nặng, các chi hơi ngắn, hệ cơ nặng nề (ục ịch), da dầy, ít cử động, lông cứng.
Kiểu cấu tạo thô thiển là bản chất vốn có của chó, giống chó sống lâu, có sức sống và thích nghi tốt với mọi điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, loại hoạt động thần kinh cao nhất khoẻ, trầm tĩnh nhưng ít linh hoạt.

Cấu tạo mảnh mai: Được biểu thị bằng những tính chất ngược lại với kiểu cấu tạo thô thiển. Đầu nhẹ nhõm, duyên dáng, cổ nhỏ và hay cử động luôn. Bộ xương mình và các chi mảnh mai. Da mỏng, dễ căng và đàn hồi tốt, lông mềm mại, hầu như không có lông mao dưới. Hệ cơ bắp phát triển kém. Kiểu cấu tạo này phần lớn ở giống chó hay chết non (ít thọ). Loại hoạt động thần kinh cao nhất yếu, không điềm tĩnh, không linh hoạt. Sức sống và khả năng thích nghi với điều kiện sống hay thay đổi. Phần lớn giống chó lùn và chó giữ nhà có kiểu cấu tạo này.

Cấu tạo cường tráng: Được biểu thị bằng xương vững chắc, hệ cơ bắp phát triển tốt và có đường nét nổi rõ rệt. Da mỏng, đàn hồi tốt. Không nên nhầm lẫn kiểu cấu tạo cường tráng với kiểu cấu tạo thô thiển, vì con vật có dáng cấu tạo cường tráng thì sẽ không có những biểu hiện thô thiển, đần độn. Loại hoạt động thần kinh cao nhất thường là khoẻ, điềm tĩnh và linh hoạt.

Cấu tạo gầy còm: Bộ xương phát triển ít nhưng chắc, hệ cơ bắp gầy gò, không có các lớp mỡ dễ nhận thấy được qua lớp da, gân nổi rõ, đầu tương đối nhỏ, cổ cử động tốt, vận động nhanh nhẹn. Chó có cấu tạo kiểu này có sức sống tốt, chịu đựng được với những thay đổi hoàn cảnh một cách dễ dàng. Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, cơ động, nhưng thường không điềm tĩnh.

Cấu tạo yếu ớt: Được biểu hiện bằng sự phát triển mạnh hệ tế bào dưới da và mô mỡ có đọng các lớp mỡ không chỉ ở dưới da mà còn ở giữa những cơ, hệ cơ và gân không nổi. Da uốn nếp, cổ thường hay chúi xuống và có yếm. Bụng xệ, vận động uể oải. Sức sống tương đối tốt. Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, điềm tĩnh nhưng ít linh hoạt.

Các kiểu cấu tạo này, thực tế các yếu tố mảnh mai, gầy còm, thô thiển, cường tráng và yếu ớt có thể được kết hợp với nhau ở mức độ khác nhau trong giới hạn của giống này và giống khác.

Cấu tạo và ngoại hình chú ý đặc biệt khi chọn đôi để gây giống, để làm tăng thêm các đặc điểm mong muốn và giảm bớt những đặc điểm không cần thiết ở các thế hệ sau.

5. Đo chó bằng phương pháp sinh học

Ngoài việc đánh giá ngoại hình của chó bằng mắt thường, việc đánh giá bằng cách đo sinh học thông qua các số đo của nó, cho chúng ta thấy được các chỉ số của thể tạng (dáng, vóc).
Các số đo sau đây thường được áp dụng:

1. Chiều cao ở bướu vai (chiều cao của chó) được đo bằng thước đo chiều cao theo đường dây dọi từ đất đến điểm cao nhất của bướu vai.

2. Chiều dài xiên của mình chó được đo bằng thước đo từ bờm ngoài của xương vai đến giữa bờm mông của xương chậu.

3. Vòng rộng đốt khớp bàn chân, dọi bằng thước dây có vạch đến cm, đặt ở đoạn 1/3 phía trên của khớp xương.

4. Chiều rộng của ngực đo ở phía trước, giữa hai vai.

5. Vòng ngực đo bằng thước dây theo chu vi phía sau của hai chân trước.

6. Chiều sâu của ngực được đo từ phần dưới của ngực đến phần trên của bướu vai; ở phía sau của hai chân trước (phía sau nách).

7. Chiều dài của chân trước được đo theo phương thẳng đứng tính từ đất đến phần nhô ra ở phía trên của khuỷu chân.

Sau khi có được kết quả đo, ta xác định các chỉ số:

Chỉ số kích thước hoặc chỉ số của độ dài: Chỉ số này biểu thị tỷ lệ phần trăm chiều dài xiên của mình chó so với chiều cao tại bướu vai, và chỉ rõ chiều dài của chó lớn hơn hoặc nhỏ hơn chiều cao là bao nhiêu, nghĩa là tỷ lệ với thân hình.

Chỉ số lượng xương: Tỷ lệ phần trăm của vòng khớp đốt bàn chân với chiều cao tại bướu vai. Nó biểu thị độ phát triển của khớp đốt bàn chân so với chiều cao của chó, tỷ lệ càng lớn thì khớp đốt bàn chân càng nhiều, chó có xương to hơn.

Chỉ số độ cao của chân: tỷ lệ phần trăm của chiều dài chân trước với chiều cao tại bướu vai.

Góc của đốt các khớp được xác định bằng mắt thường hoặc bằng thước đo.

Khi so sánh các chỉ số với tiêu chuẩn ta có thể kết luận được thân hình (thể tạng) của chó đúng hay không đúng.

6. Cách chụp ảnh chó

Nhân việc đo chó bằng phương pháp sinh học, tôi xin đưa ra "cách luyện thế đứng chuẩn và chụp ảnh chó" của HLV Hùng Hà Nội. Vì trên thực tế, còn nhiều bạn chưa biết chụp ảnh chó thế nào cho chuẩn, cho đẹp (ngay cả bản thân tôi cũng vậy ).

Tạo thế đứng cho chó và để chụp được những bức ảnh đẹp cho con chó của mình là một việc làm không phải dễ. Muốn được vậy cũng như các bài tập khác chúng ta cũng phải tập cho con chó của mình thì mới đạt được. Hãy xem những bức ảnh mà hội viên Vietpet gửi lên diễn đàn là chúng ta thấy rõ là căn bản về hiểu biết thế nào là chụp ảnh hầu như không có. Với sự hiểu biết của mình và các qui định về chụp ảnh chó của Hiệp hội chó quốc tế FCI, tôi (Hùng Hà Nội) xin giới thiệu và hướng dẫn các bạn về vấn đề này.

Quy định về thế đứng của chó:

Khi chụp ảnh chó, con chó phải đạt được và thể hiện như sau: Chó đứng trên một mặt phẳng ( Bãi cỏ, nền ximăng, bàn gỗ ). Hai chân trước bước song song với nhau và vuông góc với mặt đất. Chân phải phía sau đứng ở điểm chiếu vuông góc từ phần bẹn của chính chân ấy, chân trái phía sau hơi duỗi về phía sau ( duỗi ra quá sau mông ). Xương cẳng chân phải vuông góc với mặt đất. Cổ chó phải tạo với phương nằm ngang một góc 45o, tai dựng đứng ( giốngchó tai cụp thì rủ xuống ), lưng căng ra, đuôi cụp xuống phía dưới

Quy định về chụp chân dung chó:

Ngoài chụp tư thế đứng thì chụp chân dung chó ( mô tả ngọai hình ). Một bức ảnh chân dung lý tưởng của chó là : Phải toát tất cả các chi tiết của Đầu chó, Tư thế của tai, Chiều dài và chiều rộng của phần trán, Màu sắc và hình dáng của mắt. Sự thể hiện của các vạch nối chiều dài và thể tích của mõm chó.


Ảnh chụp chân dung khuôn mặt



Tạo thế đứng từ lúc nhỏ






Tư thế toàn thân



Dùng dây dắt giữ căng chó theo tư thế toàn thân

Tập luyện:

Để tạo đựoc các thế đứng chụp ảnh thì chúng ta phải tập cho chó từ lúc nhỏ độ 2 tháng tuổi trở lên mới đạt kết quả tốt. Chó bản chất hiếu động và nghịch ngợm khi đang phát triển.Việc tạo tư thế đứng đồng thừoi với việc huấn luyện mệnh lệnh "Đứng yên". Khi bắt đầu thả chó ra khỏi chuồng thì tuyệt đối không được chụp ảnh và luyện tập tư thế đứng. Vì sẽ không đạt hiệu quả và cho không có hồn, không khác gì ta vừa mới ngủ dậy! Cho chó vận động 15 đến 30 phút liên tục khi đã thấm mệt thì ta mới bắt đầu tập. Tay trái cầm vào dây xích chó ở cổ tay phải đỡ bụng chó hô "Đứng". Vì đã mệt và động tác ta làm tỏ thái độ âu yếm nên chó sẽ đứng yên. Sau đó dùng tay phải chỉnh chân sau cho ruỗi ra theo chiùe xuôi xuống đằng sau. Tạo tư thế đẹp và toàn diện khi chụp ảnh.

Chú ý:

Khi lần đầu tập động tác này rất ngắn có khi chỉo đạt 30 giây. Sau đó thừoi gian nâng dần lên khi chó đã quen với động tác này. Thời gian đứng được lâu thì ta có thể chỉnh sửa theo ý muốn của mình sao cho đạt với tư thế chụp. Và qua đó toát lên toàn bộ vẻ đẹp của chó.

7. Màu lông hoặc sắc thái của chó

Người ta gọi màu lông phổ biến nhất của chó là mầu lông hoặc sắc thái. Sắc thái có thể từng đám hoặc liên tục. Trên mình chó có những vết lớn hoặc những đám lông khác màu gọi là đốm, còn những chỗ cùng màu nhưng có màu sáng hơn gọi là khoang.

Tuỳ theo chiều dài của lông mà chó được chia ra thành giống chó có lông dài và giống chó có lông ngắn; và theo mật độ của lông thì có giống chó lông dày và giống chó lông thưa.

Giống, điều kiện khí hậu và điều kiện nuôi dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến độ dài và độ dày của lông.

Nền xám chung của thân chó được hình thành là do chính màu lông không đều như: chân lông xám, đoạn giữa lông đen và đầu lông trắng đen. Theo sắc thái, màu này thường là màu xám đen và xám trắng. Sắc thái xám thường được gọi là lông chó sói.

Sắc thái rùa: gồm hai màu chủ yếu là lưng đen, giống như được phủ lớp lông ngựa và những phần còn lại có màu sáng hơn.

Màu hung hung: màu lông hung hung có những sắc thái khác nhau gồm: từ màu hung vàng, hung đen và hung sáng đến hung đỏ. Màu hung hung thường gặp cùng với các đốm khoang ở vùng đầu, bẹn và những phần trên của các chi.

Ngoài những màu lông nói trên có những mày khác như: trắng, đen, màu lông hổ, màu vàng nhạt.

8. Giống chó

Một nhóm lớn con vật có khả năng giữ lại và truyền lại theo di truyền những tính chất và những đặc điểm đã có ở những thế hệ trước, gọi là giống.

Chó là một trong số những loài vật nuôi ở nhà, rất dễ thích nghi để hình thành và duy trì những nhóm thuần chủng khác nhau. Điều đó có thể được giải thích bằng khả năng lai giữa các nhóm giống được dễ dàng, thời gian phát triển trong bụng mẹ tương đối ngắn (58 - 65 ngày), có khả năng sinh đẻ (có lứa đẻ đến 12 con), nó tỏ ra thuần tính khi được huấn luyện.

Nếu gây giống đúng hướng thì chỉ trong một thời gian tương đối ngắn từ 15 - 20 năm cho phép có được giống chó mới.

Tuỳ theo chất lượng công việc gây giống mà đôi khi có thể đánh giá được đúng một số giống chó được sinh sản nhanh chóng, một số giống khác bị giảm đi và cuối cùng dẫn đến diệt chủng hoàn toàn.

Ngày nay, người ta đã tính được có hơn 300 giống chó khác nhau.
Nói về giống thì rất phong phú, nhưng dựa theo công dụng của từng mục đích, thì có thể phân loại chó thành ba nhóm chính là: chó nghiệp vụ, chó săn và chó cảnh.

Riêng đối với giống chó nghiệp vụ, người ta còn phân loại theo chức năng.

Mũi chó là một giác quan đặc biệt do trời phú, có khả năng đánh hơi cực nhạy mà không động vật nào có thể sánh được, chính vì thế được các nhà khoa học gọi là "một công trình sáng tạo kỳ diệu của tạo hóa".

Khả năng đánh hơi của chó nhạy gấp 400 lần so với con người. Mũi chó có thể phân biệt được trên 2 triệu mùi vị khác nhau của vật chất, nhờ có trên 2 tỷ tế bào khứu giác, nhiều gấp 44 lần của con người.

Mọi cảnh khuyển đầu tiên đều phải tham gia các khóa huấn luyện cơ bản. Chúng phải tuyệt đối tuân lệnh người điều khiển. Nhờ sự huấn luyện này mà cảnh sát có thể chế ngự được tính hung hăng cố hữu của loài chó dữ, và cho phép nhân viên cảnh sát có thể kiểm soát được sức mạnh tấn công kẻ tình nghi của con chó theo ý muốn. Từ đó có thể dùng cảnh khuyển vào bất cứ việc gì, cho dù công việc có nguy hiểm.

Chó cảnh sát: Cách xa ngoài 5 m, chó cũng có thể cảm nhận được những biểu hiện trong cảm xúc của con người. Khi một con chó cảnh sát tấn công tội phạm, vẻ bên ngoài của nó tỏ ra dũng mãnh, ngoan cố, khiến cho người ta phải run sợ. Sử dụng chó cảnh sát để phá án là điều có thể thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Cơ quan cảnh sát của nước Anh, nhờ sự trợ giúp của chó cảnh sát, mỗi năm phá hàng chục nghìn vụ án.


Chó phát hiện sự rò rỉ ở các ống dẫn khí: Phát hiện chính xác những chỗ rò rỉ của những ống dẫn khí đốt lắp đặt dưới đất là điều rất phức tạp. Với cái mũi kỳ diệu của mình, chó có thể phát hiện nhanh chóng nơi ống dẫn khí bị hư hỏng.

Chó làm trinh sát: Trong một cuộc chiến giữa quân Pháp và quân Đức, nhờ có được nhiều tin tức “thám báo” do chó cung cấp, quân Pháp đã buộc được quân Đức phải tháo chạy mà không tốn một viên đạn.

Chó kiểm tra các linh kiện điện tín: Cơ quan Bưu điện Thụy Điển tuyển dụng 30 chú chó, giao cho chúng nhiệm vụ kiểm tra các dụng cụ thông tin. Những con chó này đã dùng mũi phát hiện rất chính xác những chỗ hư hỏng trong hệ thống đường dây thông tin, nhờ đó mà sửa chữa kịp thời.

Chó tìm mỏ: Thăm dò là phương pháp truyền thống để tìm khoáng sản. Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng các chú chó có chuyên môn đặc biệt này để tìm kiếm các loại khoáng sản quý trong lòng đất. Chúng có thể giúp các nhà địa chất tìm được những mỏ sắt và lưu huỳnh nằm ở độ sâu 12 m dưới mặt đất.

Chó phát hiện ma tuý: Trong các nước tư bản, các tổ chức buôn lậu ma túy thường sử dụng nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi khiến cho lực lượng hải quan và cảnh sát khó có thể đối phó. Thế nhưng, những kẻ buôn lậu xảo quyệt rất nể sợ các con chó cảnh sát. Bởi vì, bọn chúng dù có cất giấu các thứ hàng phạm pháp đó kín đáo và khéo léo đến đâu cũng không thể nào tránh được mũi của các chú chó. Ở Mỹ, có một con chó tên là Sipu từng phát hiện một lượng ma túy trị giá 63 triệu USD. Một con chó khác có tên là “Tướng quân” cũng đã phát hiện được 221 vụ buôn bán ma túy bất hợp pháp. Bọn buôn lậu ma túy đều vô cùng hoảng sợ khi nghe đến cái tên của chú chó này.

Chó tìm kiếm nạn nhân: Trong cuộc chiến tranh giữa Ai Cập và Israel trước đây, có một số thi thể của các binh sĩ bị chôn vùi trong sa mạc Sinai. Một số nhân viên chuyên nghiệp với sự giúp đỡ của các thiết bị điện tử hiện đại do Liên Hợp Quốc phái đến tìm kiếm vất vả trong nhiều tuần lễ chỉ phát hiện được 8 thi thể. Sau đó Liên Hợp Quốc phải mượn 2 chú chó cảnh sát của Anh và cũng trong chừng ấy thời gian, 2 “nhân viên” này đã phát hiện trên 40 tử thi, một số lượng khiến người ta hết sức kinh ngạc. Tiếp theo đó, Chính phủ Anh lại gửi thêm 4 chú chó cùng có chuyên môn tương tự. Kết quả là trong khoảng thời gian 6 tuần lễ, đã tìm được trên 400 thi thể, đáng chú ý là có một số thi thể trong đó đã bị chôn vùi ở độ sâu hơn 2 m.

Chó dò mìn: Sau khi được đưa đến hiện trường, và chỉ sau một thời gian ngắn lùng sục và đánh hơi, các chú chó “công binh” này có thể chỉ ra được một cách chính xác những nơi có mìn và chất nổ được chôn giấu.

Chó dự báo về địa chấn: Chó có thể dự báo về động đất nhờ cái mũi hết sức nhạy cảm. Vì thế, chúng được gọi với cái tên là “thiết bị địa chấn 4 chân”. Theo sự nghiên cứu của các nhà khoa học, trước khi có động đất, trong không khí xuất hiện một loại hạt rất nhỏ có mang điện, mũi của chó có thể nhận biết một hiện tượng khác lạ sắp xảy ra.
Trong các loại chó Béc giê, chó béc giê Đông Âu là loại nổi tiếng nhất. Vì vậy, chúng ta ưu tiên tham khảo sâu thêm về loại chó này.

Giống chó này được nhiều người ưa thích nhờ có bản chất tự nhiên của nó và nó được sử dụng trong tất cả các mục đích của ngành nuôi chó nghiệp vụ.

Chó béc giê Đông Âu thường có dáng to, tai thính và mũi thính, không tin người lạ, phản ứng tự vệ rất mạnh, dũng cảm khi đánh nhau tay đôi với người, dễ thích nghi với khí hậu, dai sức khi làm việc, dễ nuôi và dễ chăm sóc, dễ bảo khi huấn luyện, kiềm chế tốt những phản xạ có điều kiện đã thành thói quen.

Khi chọn chó để làm nghiệp vụ và để gây giống, phải đáp ứng được những yêu cầu, gồm:
- Kiểu cấu tạo cơ thể: khoẻ và gầy khoẻ, có bộ xương phát triển tốt và hệ cơ chắc chắn, da đàn hồi tốt, không có nếp nhăn, không bị chảy

- Chỉ số lượng xương đối với chó đực là 18 - 20, đối với chó cái là 27 - 19

- Chỉ số kích thước 110 - 112

- Chiều cao tại bướu vai đối với chó đực là 66-70cm, đối với chó cái là 62 - 66cm

- Kiểu giới tính: biểu hiện rõ giới tính của giới đó, chó đực to khoẻ, dũng cảm hơn chó cái, có bướu vai rõ hơn, ngực rộng hơn, đầu lớn hơn theo tỷ lệ so với thân.

- Đặc điểm tính tình (tính nết): Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, năng động, điềm tĩnh, có phản ứng tự vệ tích cực.

- Lớp lông: lông dày, hơi cứng có chân lông phát triển tốt. Lông thẳng. Ở đầu tai và các chi lông ngắn hơn, còn ở các bộ phận khác của cơ thể lông dài hơn.
Sắc thái: xám từng vùng, hung hung từng vùng màu lông ngựa, đen và đen có đám xám.

- Đầu có hình xuôn to và nở đều về phía sọ. Má có nhiều cơ, hơn tròn

- Trán phẳng từ phía bờm gáy xuống và phải có phần trước hơi lồi một chút. Toàn bộ chiều dài được chia thành hai nửa có rãnh hơi rõ. Phần chuyển tiếp từ trán xuống mõm thấy rõ nhưng đều dần.

- Mõm: song song với đường nối tiếp của trán, hình dáng nhọn, dưới có môi dính liền. Về chiều dài thì ngắn hơn nửa chiều dài của đầu một chút. Cánh mũi to và đen.

- Tai: trị số trung bình, dựng đứng, dựng cao, vành tai nhọn, có hình tam giác cân, tai hướng về phía trước và vểnh lên trên.

- Mắt màu đen, hình ô van, nằm nghiêng, mí mắt khô và dính sát.
- Răng to, trắng, nằm sát nhau. Các răng cửa được xếp thành một hàng, độ cắn khít của răng giống hình lưỡi kéo

- Cổ cứng khoẻ, có cơ bắp gầy guộc, chiều dài gần bằng chiều dài của đầu. Cổ chúc dưới một góc 40 - 45 độ theo tỷ số so với đường lưng.

- Ngực hình ô van, dài, rộng và sâu. Đường dưới của ngực không được cao hơn các khuỷu

- Bụng thon đều

- Bướu vai phát triển tốt, nhô cao rõ hơn so với đường lưng

- Lưng chắc, thẳng rộng

- Eo lưng ngắn, rộng, vồng lên, chuyển tiếp đều dần sang phần mông

- Mông tròn, dài, rộng, nhiều cơ, thấp dần về phía chân đuôi

- Đuôi hình lưỡi kiếm, về chiều dài thì đốt cuối cùng phải xuống tới khớp gối hoặc quá khớp gối một chút. Khi đứng yên, chó cúp đuôi xuống, còn khi được kích thích thì một phần ba chiều dài của đuôi ở phía chân đuôi nằm trên cùng một đường thẳng với đường lưng, hai phần ba còn lại uốn cong lên phía trên.

- Chi trước: vai có nhiều cơ bắp, các góc nổi rõ ràng. Góc của khớp vai trong giới hạn 90 - 100 độ. Cẳng chân trước thẳng, đứng thẳng và song song với nhau. Chiều dài của chân trước tính đến cẳng phải lớn hơn nửa chiều cao của chó một chút. Điểm tính lại bướu vai chỉ số của xương chân là 50 - 54.

- Khối đốt bàn chân dài, đàn hồi được, nằm hơi nghiêng (góc so với mặt đất khoảng 60 độ).

                                                                                                                                                                           Theo VP

0 nhận xét: